Tại sao bệnh nhân tiểu đường dễ bị suy thận?
Last Updated on January 16, 2023 by Dan Dan
Người bệnh đái tháo đường có nguy cơ mắc hội chứng bệnh thận do đái tháo đường gây ra các biến chứng ở cầu thận, mạch máu thận, nhiễm trùng thận, v.v.
Thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới (IDF) cho thấy, khoảng 40% người mắc bệnh đái tháo đường có biến chứng suy thận. Ở bệnh nhân đái tháo đường týp 1, sau 10 năm mắc bệnh, khoảng 50% trường hợp tiến triển thành suy thận giai đoạn cuối. Riêng đối với người bệnh tiểu đường tuýp 2, ngay khi mắc bệnh, có thể có hiện tượng rò rỉ protein trong nước tiểu. 40% người suy thận giai đoạn cuối phải chạy thận nhân tạo tại bệnh viện là do đái tháo đường.
Theo Thầy thuốc Ưu tú, Bác sĩ chuyên khoa II Tạ Phương Dung, Phó Giám đốc Trung tâm Thận tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, biến chứng suy thận do đái tháo đường rất phổ biến. Bệnh thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng mãn tính gây tổn thương các mạch máu nhỏ của bệnh đái tháo đường, bên cạnh biến chứng võng mạc, bệnh lý thần kinh ngoại biên và bệnh thần kinh tự chủ. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây suy thận mạn giai đoạn cuối ở các nước như Mỹ, Châu Âu và cả các nước Châu Á như Đài Loan và Nhật Bản, với tỷ lệ dao động từ 24-45% bệnh nhân CKD giai đoạn cuối. đoạn cuối.
Các yếu tố liên quan đến cơ chế bệnh sinh của tổn thương thận: Tăng đường huyết, tăng lọc cầu thận ở bệnh nhân đái tháo đường, tăng huyết áp, do di truyền. Suy thận có thể xảy ra ở mọi chủng tộc, nhưng phổ biến hơn ở người da đen, người da đỏ Pima, người Mỹ gốc Mexico …
Nguyên nhân khiến người bệnh đái tháo đường phải đối mặt với nguy cơ suy thận là bệnh xơ cứng cầu thận do rối loạn chuyển hóa và huyết động. Lượng đường trong máu cao kéo dài trong nhiều năm có thể dẫn đến tổn thương các cầu thận, các mạch máu nhỏ trong thận. Với những tổn thương này, các cầu thận bắt đầu “tiết ra” một lượng nhỏ albumin, được gọi là “albumin niệu vi lượng” (microalbuminuria), một yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Cuối cùng, các cầu thận bị ảnh hưởng và dẫn đến protein niệu. Albumin niệu có liên quan lâm sàng với tăng nguy cơ tiến triển của bệnh thận và các biến cố tim mạch. Chẩn đoán dựa trên các phép đo albumin và protein niệu, và mức lọc cầu thận (GFR).
Tiến triển của bệnh suy thận ở người bệnh tiểu đường thường âm thầm, không có dấu hiệu rõ ràng nên người bệnh rất khó nhận biết. Một dấu hiệu cảnh báo sớm là sự hiện diện của một lượng rất nhỏ albumin trong nước tiểu. Tình trạng này không được nhận biết bằng phương pháp phân tích nước tiểu thông thường mà cần phải có xét nghiệm chuyên biệt.
Bệnh nhân tiểu đường khi bị suy thận giai đoạn đầu sẽ có những biểu hiện mơ hồ, dễ nhầm lẫn với các bệnh khác như đau đầu, chán ăn, mất ngủ, tăng huyết áp, mệt mỏi, suy giảm trí nhớ… Đến khi có các triệu chứng cụ thể như phù toàn thân, tăng tụt huyết áp, buồn nôn, nôn, tràn dịch màng tim, tràn dịch màng phổi… thì bệnh đã đến giai đoạn muộn.
Để chẩn đoán biến chứng suy thận ở người bệnh tiểu đường, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm nước tiểu để tìm sự hiện diện của albumin vi lượng. Ba cách lấy nước tiểu bao gồm: lấy nước tiểu ngẫu nhiên, lấy nước tiểu 24 giờ và lấy nước tiểu trong khoảng thời gian quy định. Nếu kết quả bất thường, bệnh nhân cần được kiểm tra lại sau 3-6 tháng và chẩn đoán albumin niệu nếu kết quả tiếp tục bất thường.
Bác sĩ Phương Dung cho biết, điều trị hội chứng thận hư do đái tháo đường bắt đầu từ việc kiểm soát lượng đường huyết, đảm bảo mức HbA1C ổn định từ 7 trở lên. Huyết áp của bệnh nhân được kiểm soát chặt chẽ ở mức dưới 130/80 mmHg bằng thuốc chuyển angiotensin, thuốc lợi tiểu và thuốc chẹn kênh canxi nondihydropyridine. Ngoài ra, các bác sĩ cũng phối hợp với các biện pháp điều trị bao gồm hướng dẫn người bệnh xây dựng thực đơn giảm đạm, bổ sung vitamin D3 và natri bicarbonat, hạn chế ăn mặn (dưới 2g mỗi ngày). Người bệnh suy thận giai đoạn cuối có thể được ghép thận khi sức khỏe đảm bảo và có thận hiến để tăng tỷ lệ sống.
Theo bác sĩ Tạ Phương Dung, biến chứng thận ở người bệnh đái tháo đường có thể phòng ngừa hiệu quả bằng cách kiểm soát đường huyết và các yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, hút thuốc lá … Vì vậy, người bệnh đái tháo đường nên tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ. Nếu có dấu hiệu suy thận, cần nhập viện để được xử trí tích cực, tránh để bệnh tiến triển nặng hơn, ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng.
Hàn Thái