Nguồn gốc của kẹo âu yếm
Last Updated on January 16, 2023 by Dan Dan
Hà tĩnhKhi nấu đậu phộng với mật mía và vỏ chanh vào bát để bán, ông Đinh Vỹ ở huyện Hương Sơn không nghĩ ra tên kẹo cho đến khi được người Pháp thưởng thức.
Chiều giữa tháng 9, nhóm 5 ông bà trên 70 tuổi nhân dịp về quê đã đến nhà ông Đinh Vỹ ở thôn Tiến Thịnh, xã Sơn Thịnh cũ, nay là An Hòa Thịnh. xã, để chơi. Họ ngồi hàn huyên, ôn lại kỷ niệm rủ nhau trốn bố mẹ đi mua kẹo thời thơ ấu.
Ông Nguyễn Văn Hùng, 65 tuổi, trú thôn Tiến Thịnh, bà con với ông Đinh Vỹ cho biết, năm 1953, ngoài việc buôn trầu cau, thúng, ông Vỹ hay còn gọi là Cu Hai, Định Hải, thường lấy đậu phộng. (lạc) trộn với vỏ chanh rồi đổ vào nồi nước mật nấu thành kẹo. Khi xôi chín, anh đổ ra bát sứ để nguội rồi dùng thìa xúc lên. Anh Vỹ là người nấu món kẹo này đầu tiên ở huyện Hương Sơn, nhiều người rủ nhau mua về ăn tại chỗ.
Các tài liệu lịch sử văn hóa Hà Tĩnh ghi lại rằng kẹo cu đơ gắn liền với tên tuổi của ông Đinh Vỹ và vùng đất Hương Sơn. Kẹo nấu được mang ra các chợ quê như Gôi, phở, rạp chiếu phim … bán cho người dân địa phương với giá hai đồng một bát hoặc một miếng to bằng bàn tay người lớn. Vì một giá hai đồng nên người ta gọi người bán kẹo kéo Đình Vỹ với cái tên quen thuộc là Hai cho dễ nhớ.
Hồi đó, vùng giáp ranh với xã Sơn Thịnh cũ có đồn Pháp đóng quân, thỉnh thoảng lính đến nhà ông Hai mua kẹo, uống trà. Thấy mọi người xung quanh nhắc tên chủ quán là Hải, họ dịch từ tiếng Pháp Hải thành “Deux”, có nghĩa là “số 2”. Lâu dần, họ gọi kẹo của ông Cu Hai là “kẹo cu-đơ”.
Từng tham gia viết nhiều cuốn sách về văn hóa, ẩm thực địa phương, ông Lê Nhật Tân, nguyên Trưởng Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Hương Sơn cho biết, qua tìm hiểu đã khẳng định kẹo cu đơ có nguồn gốc từ vùng và ông. Đình Vỹ là người đầu tiên trong huyện khởi xướng nghề làm kẹo. Những câu chuyện liên quan đến ông Hai và nguồn gốc cái tên kẹo cu đơ xuất hiện trong nhiều tài liệu, qua thời gian “tam sao thất bản” nhưng vẫn thú vị.
“Có cuốn sách kể rằng, trước đây trong vùng có một cậu bé thiếu sinh quân thích ăn kẹo của ông Hai nên thường rủ nhóm bạn trốn trại đi mua. Vì sợ bị phát hiện, nhóm đã dung chung toi, noi den nha cu da thay anh Hai ”, anh Tan cho hay.
Ông Nguyễn Văn Hùng cho biết thêm, bọn trẻ ngày xưa mê mẩn món kẹo cu đơ của ông Hai, thường rủ nhau đến nhà ông ngồi cả buổi để xem cách chế biến, đợi đến khi gia chủ đổ hết nguyên liệu vào tô thì mới thôi. khuôn, nhóm lấy thìa. để ráo nồi.
“Thường xuyên sang nhà ông Hải ăn kẹo, bị phụ huynh nhìn thấy, mắng mỏ, để không bị phát hiện, mỗi lần rủ nhau vào nồi, bọn trẻ thường ra hiệu bằng ngón tay, ngụ ý. Đó là nhắc đến ông Hai và kẹo cu đơ – tên do người Pháp đặt. Theo thời gian, tiếng gọi của trẻ con lan sang người lớn, nhiều gia đình sau này học nghề nấu kẹo cu đơ bán kiếm sống của ông Hai ”, ông Hai nói. Treo.
Vào những năm 1960 – 1970, kẹo cu đơ bắt đầu trở thành món quà quê nổi tiếng của huyện Hương Sơn. Người dân các vùng trong tỉnh khi đến vùng núi này tìm hiểu, học hỏi nghề làm kẹo rồi trở về phổ biến trong thị xã.
Ông Đinh Vỹ tự tay nấu kẹo kéo đến năm 1965, sau khi già yếu. Vợ chồng ông Hải có 5 người con, hiện không ai theo nghề của cha đã chuyển đi các tỉnh khác sinh sống. Là họ hàng bên ngoại của ông Vỹ, bố mẹ ông Hùng học nghề nấu kẹo cu-đơ từ năm 1966. Sau này, khi bố mẹ nghỉ hưu, ông Hùng vẫn tiếp tục kiếm tiền trang trải, nuôi con ăn học.
Trước đây, vùng bãi bồi ven sông Ngàn Phố trồng rất nhiều lạc và mía, nguyên liệu làm kẹo kéo. Vào vụ, lạc thu hoạch được phơi khô, bóc vỏ. Mía chặt khúc đem ép lấy nước nấu mật ong, mật nấu kẹo phải có màu sáng và trong, không có cặn.
Theo anh Hùng, khi nấu kẹo cần cho thêm vỏ chanh và gừng thái sợi. Không nên lấy gừng già quá sẽ bị xơ, củ non ăn không được thơm. Vỏ chanh phải lấy từ quả chín, nếu còn xanh sẽ có vị đắng. Trong quá trình đun, phải bắc nồi mật lên bếp trước, để lửa đều, đậy kín không cho gió lùa vào, khi sôi thì cho lạc vào, lạc không được bóc vỏ, sống, nếu rang sẽ làm dầu bị hôi. Sau khi đổ lạc vào, dùng đũa đảo liên tục, cảm thấy lạc gần giòn thì cho vỏ chanh và gừng vào, đảo thêm vài phút rồi bắc nồi xuống. Một mẻ sữa trứng đông lạnh mất gần một giờ.
Ông Hùng cho biết: “Nấu kẹo cu đơ cũng là một nghệ thuật, đòi hỏi người thợ phải nắm rõ quy trình chế biến để tạo ra những viên kẹo có độ dẻo của mật mía, quyện với độ giòn của lạc, thơm của gừng và vỏ chanh”.
Trước đây, ông Hai đổ kẹo vào bát sứ, còn gia đình ông Hùng thường làm khuôn đổ trên lá chuối hoặc giấy, dùng dao bén cắt thành từng miếng hình chữ nhật để bán. Với kẹo đổ trên giấy, khi ăn cần lấy một ít nước sôi thoa lên lưng cho bong tróc lớp niêm mạc. Sau này, ông Hùng dùng bánh tráng mè để đổ kẹo, cách làm này tăng thêm hương vị cho kẹo bởi độ giòn của bánh tráng nướng và mùi thơm của mè. Bây giờ người dân Hà Tĩnh áp dụng cách nấu kẹo dồi là đổ vào bánh tráng.
Trước đây, mỗi ngày anh Hùng nấu vài trăm viên kẹo cu-đơ. Trung bình để nấu được 200 chiếc cần một kg lạc và hai kg mật. Việc nấu nướng nhiều cần phải có hai người làm, ít nhất anh ấy có thể tự xoay xở được. Từ vài đồng một bát kẹo, đến những năm 1990, cu de được bán theo khuôn, khuôn bốn tang có giá 2.000 đồng. Hiện nay, giá một viên kẹo tròn to bằng hai bàn tay người lớn, đổ lên bánh tráng bán với giá 10.000-16.000 đồng.
Năm ngoái, ông Hùng nghỉ nấu kẹo cu đơ, chuyển vào TP Vinh, Nghệ An sống cùng con cháu. Ở làng Tiến Thịnh, nhiều người đã nghỉ hưu, con cái không trưởng thành với nghề, thỉnh thoảng một số hộ nấu cu de để giải khát.
Từ một viên kẹo không tên tuổi, cu de trở nên nổi tiếng nhờ dịch từ Hai thành “Deux” trong tiếng Pháp. Hiện nay, cu de là đặc sản nổi tiếng của Hà Tĩnh, hàng nghìn cơ sở lớn nhỏ trong tỉnh đã thành lập để bán món quà này, những người con xa quê hay khách thập phương đều mua về làm quà khi về tỉnh. .
Năm 2021, Hội Kỷ lục gia Việt Nam công bố kẹo cu đơ Hà Tĩnh lọt Top 100 món ăn, quà tặng đặc sản.