Làm thế nào để điều trị bệnh đậu mùa khỉ?
Last Updated on January 17, 2023 by Dan Dan
Bệnh đậu mùa khỉ chủ yếu là điều trị triệu chứng, các loại thuốc đặc trị được sử dụng cho các trường hợp nặng và tình trạng đặc biệt, theo Bộ Y tế.
Sáng 3/10, Sở Y tế TP.HCM đã ghi nhận một trường hợp mắc bệnh đậu khỉ qua giám sát dịch tễ, đây là trường hợp mắc bệnh đậu khỉ đầu tiên tại Việt Nam. Yếu tố dịch tễ của trường hợp này đang chờ Bộ Y tế công bố.
Theo Bộ Y tế, nguyên tắc chung trong điều trị bệnh đậu khỉ là giám sát, cách ly, chủ yếu là điều trị triệu chứng, đảm bảo dinh dưỡng, cân bằng điện giải và hỗ trợ tâm lý, dùng thuốc đặc trị theo nhóm. nguy cơ cao và theo dõi các dấu hiệu tiến triển hoặc biến chứng.
Ở thể nhẹ, bệnh nhân được điều trị hạ sốt, giảm đau, chăm sóc các tổn thương ở da, mắt, miệng; theo dõi các biến chứng như viêm phổi, nhiễm trùng da, nhiễm khuẩn huyết, viêm não… Người bệnh nặng được điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu, sử dụng các thuốc đặc hiệu như tecovirimat, cidofovir, brincidofovir, immunoglobulin (hay còn gọi là huyết thanh).
Tecovirimat là một loại thuốc uống và tiêm truyền. Brincidofvir là thuốc uống và cidofovir dùng để tiêm truyền tĩnh mạch. Các loại thuốc này dùng cho cả người lớn và trẻ em, tuy nhiên liều lượng sử dụng khác nhau. Riêng đối với globulin miễn dịch, Bộ Y tế yêu cầu xem xét tính an toàn và hiệu quả khi sử dụng cho bệnh nhân đậu khỉ.
Trên khắp thế giới, những người bị bệnh đậu mùa khỉ cũng được điều trị bằng các loại thuốc tương tự, nhưng Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) lưu ý rằng các nhóm thuốc này không có dữ liệu về hiệu quả. Cidofovir và brincidofovir đã được chứng minh chống lại virus thuộc họ poxvirus (có thể gây ra bệnh đậu mùa) trong các nghiên cứu trên động vật và ống nghiệm. Các nhà khoa học vẫn chưa biết liệu loại thuốc này có thể điều trị những người mắc các triệu chứng nghiêm trọng hay không. Tecovirimat có hiệu quả chống lại virus thuộc giống orthopoxvirus (thuộc họ poxvirus) có thể gây bệnh đậu mùa, các thử nghiệm lâm sàng cho thấy thuốc an toàn và dung nạp tốt, chỉ gây ra các tác dụng phụ không đáng kể.
Ngoài thuốc, vắc xin đậu mùa khỉ cũng được quan tâm. Lãnh đạo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết, hiện thế giới chỉ có hai loại vắc xin được Mỹ cấp phép sử dụng, đều là vắc xin vi rút sống. Vắc xin này có lịch tiêm hai liều, cách nhau 4 tuần, cho những người trên 18 tuổi. Tuy nhiên, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo không nên tiêm chủng đại trà loại vắc xin này mà chỉ tiêm cho các nhóm nguy cơ cao.
“Hiện Việt Nam chưa có vắc xin cũng như khuyến cáo về việc tiêm phòng bệnh đậu khỉ”, đại diện Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết, chiều 3/10.
Hai loại vắc xin được sử dụng trên thế giới là Jynneos và ACAM2000. Jynneos ban đầu được sử dụng để ngăn ngừa bệnh đậu mùa, nhưng Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt việc sử dụng khẩn cấp loại vắc xin này để ngăn ngừa bệnh đậu mùa ở khỉ vào năm 2019. Đây là loại vắc xin sử dụng một loại vi rút bất thường. hoạt động, không thể tái tạo, do đó vi rút đậu mùa trong vắc xin không lây lan trong cơ thể. Vắc xin này được tiêm hai liều, cách nhau 4 tuần. Dữ liệu từ châu Phi cho thấy vắc xin có hiệu quả ít nhất 85% trong việc ngăn chặn vi rút lây nhiễm. Tác dụng của Jynneos đối với bệnh đậu khỉ được rút ra từ các nghiên cứu tiền lâm sàng và sinh miễn dịch trước đó.
Thuốc chủng ngừa ACAM2000 được FDA chấp thuận để sử dụng cho những người có nguy cơ cao mắc bệnh đậu mùa. CDC Hoa Kỳ khuyến nghị tiêm chủng cho những người từ 1 tuổi trở lên, tiêm một liều duy nhất. Các tác dụng phụ sau khi tiêm bao gồm viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim và nhiễm vi rút do tiêm chủng cho những người tiếp xúc trong gia đình.
Thuốc chủng ngừa đậu mùa và đậu mùa khỉ có hiệu quả nhất nếu được tiêm trước khi tiếp xúc với vi rút. Các chuyên gia cũng gợi ý rằng tiêm ngay sau khi nhiễm trùng có thể ngăn ngừa bệnh tật hoặc làm cho các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn.
Bệnh đậu mùa khỉ có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm giảm thị lực, giảm ý thức, hôn mê, co giật, suy hô hấp, chảy máu, giảm lượng nước tiểu, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Những trường hợp này phải điều trị ở bệnh viện tuyến trên. Bệnh nhân được xuất viện nếu được cách ly ít nhất 14 ngày và không có triệu chứng, không xuất hiện tổn thương mới trên da trong ít nhất 48 giờ, và các tổn thương cũ đã đóng vảy.
WHO kêu gọi các quốc gia tăng cường giám sát, truy tìm liên lạc và quản lý ca bệnh. Tuy nhiên, tổ chức này cảnh báo rằng việc mua sắm thuốc và vắc xin ồ ạt và bừa bãi khi tỷ lệ lây nhiễm vẫn còn tương đối thấp sẽ có tác động tiêu cực.
Lê Nga – Thục Linh